Thứ Ba, 5 tháng 9, 2017

Khái niệm về nhận thức


Quá trình nhận thức của mỗi con người luôn diễn ra thường xuyên và liên tục trong mọi hoạt động của chúng ta. Vậy bạn hiểu nhận thức là gì?

Ở bài đọc trước chúng tôi đã giúp bạn hiểu và trả lời cho câu hỏi vật chất là gì? Đến với bài đọc ngày hôm nay chúng tôi sẽ giúp bạn phân tích thuật ngữ nhận thức.
Tìm hiểu khái niệm nhận thức là gì

Nhận thức là những quá trình phản ánh biện chứng của thế giới khách quan vào trong trí óc con người, giúp con người cảm nhận, đánh gia được hiện thực khách quan đó. Nhận thức chỉ có ở con người, nhận thức không tồn tại ở vật. Nhận thức có tính năng động, tích cực,chủ động, sáng tạo và phải dựa trên cơ sở thực tiễn, nhờ đó mà con người có thể tư duy không ngừng. Vậy quá trình nhận thức là gì?
Khái niệm về nhận thức
Khái niệm về nhận thức

                             
Trực quan sinh động -> Tư duy trừu tượng -> Thực tiễn.

Mọi quá trình nhận thức không chỉ giúp giải thích mà còn giúp cải tạo thế giới theo hướng tối hơn.

Mỗi quá trình nhận thức thường được chia thành ba giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1 – Nhận thức cảm tính: Đây là giai đoạn đầu tiên của một quá trình nhận thức, là giai đoạn mà con người sử dụng các giác quan của mình như thị giác, thính giác, khứu giác… để nắm bắt thông tin của sự vật hiện tượng.

Giai đoạn 2 – nhận thức lý tính: Đây là một quá trình tư duy trừu tượng, phản ánh các sự vật hiện tượng một cách gián tiếp. Quá trình này được bộc lộ qua những hình tức như suy luận, lý giải, nhận định.

Giai đoạn 3 – nhận thức trở về thực tiễn : Ở quá trình này, tri thức sẽ được thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng, sai. Mọi quá trình nhận thức đều phải lấy thực tiễn làm cơ sở, chân lý, mục đích.

Ví dụ: Khi bạn nhắm mắt lại và môt người khác đưa cho bạn một quả cam. Lúc đầu bạn không hề biết đó là một quả cam và lúc này quá trình nhận thức của bạn sẽ diễn ra.

tham khảo thêm: phong tục là gì

Giai đoạn 1: Bạn sẽ nhờ chi giác và khứu giác để cảm nhận vật này gần giống với quả cam.

Giai đoạn 2: Bạn dựa vào kinh nghiệm và những kiến thức mà bạn có để suy luận và đưa ra nhận định vật đó là quả cam.

Giai đoạn 3: Khẳng định vật trên tay bạn là quả cam.
nguồn: hoidapbonphuong.com

Thứ Sáu, 1 tháng 9, 2017

Khái niệm lương tối thiểu


Lương tối thiểu:

Trong cuộc sống, con người có những nhu cầu tối thiểu cần được đáp ứng là: ăn, ở, mặc, nhu cầu bảo vệ sức khoẻ và duy trì giống nòi. Ngoài ra còn có những nhu cầu xã hội khác như: học tập, giải trí, giao tiếp, đi lại… Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà nhu cầu của mỗi cá nhân có sự khác nhau. Tuy nhiên, để có thể duy trì cuộc sống thì con người cần phải có đủ điều kiện sinh hoạt ở mức tối thiểu, hay nói cách khác đấy là mức sống tối thiểu của mỗi người. ở mỗi thời kỳ khác nhau, mức sống tối thiểu lại khác nhau. Mức sống tối thiểu là mức độ thoả mãn những nhu cầu tối thiểu của người lao động bao gồm cơ cấu chủng loại các tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động giản đơn. Mức sống tối thiểu của người lao động có liên quan chặt chẽ tới tiền lương tối thiểu, và nó được đảm bảo thông qua tiền lương tối thiểu và các phúc lợi công cộng.

Vậy tiền lương tối thiểu là gì?

Trước hết có thể hiểu: tiền lương tối thiểu chính là mức lương thấp nhất mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động nhằm duy trì cuộc sống tối thiểu cho bản thân và gia đình người lao động đó. Mức lương tối thiểu chính là mức lương nền móng được pháp luật quy định và bắt buộc các người sử dụng lao động phải thực hiện. Các hành vi trả lương cho người lao động cho dù là sự thoả thuận của hai bên mà thấp hơn mức lương tối thiểu sẽ bị coi là bất hợp pháp và phải chịu một chế tài tương ứng.


Theo quy định của Tổ chức lao động quốc tế, thì “Các mức lương tối thiểu được ấn định là bắt buộc với người sử dụng lao động và những người lao động hữu quan, mức lương tối thiểu đó không thể bị hạ thấp bởi những người sử dụng lao động và những người lao động hữu quan dù là thoả thuận cá nhân hay bằng hợp đồng tập thể, trừ phi các nhà chức trách có thẩm quyền cho phép chung hoặc cho phép đặc biệt.”3

“Lương tối thiểu có hiệu lực pháp luật không thể bị hạ thấp, nếu không áp dụng sẽ bị chế tài thích đáng, bao gồm cả những chế tài lịch sử hoặc những chế tài khác với những người chịu trách nhiệm.”4

Theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam : “Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt bảo đảm cho người làm công việc giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác.”5

Nói tóm lại, tiền lương tối thiểu được hiểu là số tiền nhất định trả cho người lao động tương ứng với trình độ lao động giản đơn nhất, cường độ lao động nhẹ nhàng nhất diễn ra trong điều kiện lao động bình thường. Số tiền đó đảm bảo nhu cầu sinh hoạt ở mức tối thiểu cần thiết cho bản thân và gia đình người lao động.

Từ khái niệm về tiền lương tối thiểu, ta thấy tiền lương tối thiểu có những đặc điểm sau:

* Tiền lương tối thiểu được xác định tương ứng với trình độ lao động giản đơn nhất. Tiền lương tối thiểu được xác định theo công việc, yêu cầu trình độ lao động giản đơn nhất, nghĩa là “trình độ không qua đào tạo.” 6 Điều đó được hiểu là người lao động chỉ yêu cầu trình độ lao động ở mức giản đơn nhất, lao động chân tay, chưa cần qua đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, không đòi hỏi về tính chất kỹ thuật phức tạp mà không phụ thuộc vào khả năng lao động thực tế của người lao động đó.


* Tiền lương tối thiểu được xác định tương ứng với cường độ lao động nhẹ nhàng nhất diễn ra trong điều kiện bình thường. Năng suất lao động, sức khoẻ người lao động và cường độ lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cường độ lao động trực tiếp ảnh hưởng tới năng suất lao động và quyết định sức khoẻ người lao động. Trong thực tế, hiện nay chưa có quy định cụ thể nào về cường độ lao động khi xác định tiền lương tối thiểu. Việc hiểu “cường độ lao động nhẹ nhàng nhất” còn rất chung chung và trừu tượng .

Không những tiền lương tối thiểu được xác định tương ứng với “cường độ lao động nhẹ nhàng nhất mà nó còn được xác định căn cứ điều kiện lao động, điều kiện lao động bình thường”. Điều kiện lao động được hiểu căn cứ vào tổ chức công việc, ngành nghề, điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội. Điều kiện lao động bình thường chính là điều kiện lao động của một công việc không có tính chất khó nhọc trong môi trường tự nhiên bình thường và điều kiện xã hội ổn định nhất.
nguồn: 

Thứ Hai, 28 tháng 8, 2017

Khái niệm leader là gì?

Khái niệm về Leader là gì? Leadership là gì? Người dẫn đầu ư? Không đúng! Chúng ta không nên tư duy theo kiểu nội từ như vậy. Có 1 câu chuyện.

Chuyện kể: "Có ông nọ cho thằng con đi học. Thằng bé đến nhà thầy đồ học chữ. Thầy dạy cho, chữ nhất là một nét, chữ nhị là hai nét, chữ tam là ba nét. Thằng bé về nhà tập viết. Ông bố thấy con tập viết vui lắm liền hỏi học chữ có khó không. Thằng con liền bảo:

-Dễ ợt bố ạ! Nhất là một gạch ngang, nhị thì hai gạch ngang, tam thì ba gạch, cứ thế mà viết.

Ông bố gật gù cho là phải. Liền bảo thằng con viết chữ vạn cho ông xem.
Một lúc sau, ông đi vào thấy thằng bé hì hục trên đống giấy tờ liền hỏi nó đang làm gì. Thằng con trả lời:

- Con gạch bao nhiêu giấy rồi mà vẫn không đủ một vạn gạch."

Đây là kiểu bố trí Teamwork của đại đa số người Việt chúng ta. Leader là đầu tàu, có thể lôi theo một quân đoàn hùng hậu. Có khi họ chả làm được gì những vẫn có trong quân số.


Còn như hình dưới đây là kiểu bố trí Teamwork có khoa học. Quân số ít nhưng tinh nhuệ. Leader là trung tâm, không phải người đi trước.

Ở kiểu thứ nhất, nếu leader dừng bước có nghĩa là cả đoàn người dừng bước. Do quân số quá đông, lực lượng không đều và phức tạp, việc quản lí là khó khăn.

Ở kiểu thứ hai, leader là trung tâm, mọi thành viên đều ngang bằng về vị trí và trách nhiệm. Quân số tinh giản dễ dàng quản lí và trao đổi.

Về cơ bản dễ dàng nhận ra cách bố trí nào hợp lí hơn. Và câu hỏi đặt ra là: Cái gì là mấu chốt tạo ra điều đó?

Leader, là người có trách nhiệm lớn nhất. Họ là người lãnh đạo, và quan trọng là họ tác động như thế nào đến thành viên. Một mệnh lệnh chỉ có giá trị dưới một thể chế. Rõ ràng cái lệnh hàng năm cống đồ sang Trung Quốc không thể áp dụng tại thời điểm này. Đơn giản là họ đã xóa bỏ cái thể chế đề ra nó. Vậy, mệnh lệnh không phải là vũ khí của leader.

Thực tế người lãnh đạo luôn ít hơn, ít hơn rất nhiều so với những người thực hiện.Vì không phải ai cũng làm được công việc đó. Nó là cả một nghệ thuật mà nhiều khi đã hiểu rõ về nó người ta vẫn thất bại.

Phân tích tâm lí

Vấn đề nảy sinh khi người ta không biết bắt đầu công việc từ đâu, kết thúc như thế nào, và hơn cả là làm gì. Họ cần một cái neo tinh thần để khẳng định những việc mình đang làm là đúng, hay để nhìn rõ phương hướng mình cần đi theo.

Leader đáp ứng nhu cầu đó cho họ. Anh/chị ta sẽ là người vạch ra con đường trên bản đồ tư duy cho mọi người, sẽ vẽ trong thinh không cái đích đến cho mọi người. Duy trì con đường đó đi theo đúng định hướng ban đầu và là người đưa ra quyết định cuối cùng cho mọi vấn đề.

Phân tích hình minh họa

Nhìn vào ảnh 2 ta thấy, leader là trung tâm thay vì là mũi nhọn. Nếu giả định họ đang ở trong một môi trường gồm nhiều thông tin. Các thông tin này sẽ tiếp cận đến các "điểm cầu" thành viên. Nó được xử lí và truyền đến trung tâm là leader.

Ta sẽ thấy rằng, mọi thông tin sau khi được xử lí bởi thành viên sẽ dừng lại ở leader và không đi đâu khác. Các công việc teamwork, đặc biệt là nghệ thuật thì luôn có tình trạng không biết đâu là điểm dừng. Leader là người dừng mọi việc lại ở ngưỡng cần thiết, để kết thúc một công việc. Đó là ưu điểm mà mô hình thứ nhất không có. Thông tin đi từ cuối hàng lên đến leader sẽ không đảm bảo và thời gian cũng như chất lượng hoàn toàn không đảm bảo.

Thế leader là gì? Họ là những người dẫn dắt lối chơi, của một dàn nhạc, một đội bóng. Họ là người không dùng đến nắm đấm nhưng khiến người khác tuân lệnh. Vậy thực ra những người như Steve Jobs, Eric Cantona, Zinedin Zidane... đã làm những gì để dẫn dắt tập thể đến thành công? Cái gì khiến họ trở thành những leader?

Tiếp tục với một câu hỏi và đi tìm câu trả lời cho nó. Họ, rõ ràng không đơn thuần hò hét, quát nạt hay sẵn sàng đuổi việc bất cứ ai trái ý. Cái tạo cho họ sự khác biệt là khả năng truyền cảm hứng cho những người xung quanh. Mệnh lệnh chỉ tồn tại dưới một thể chế. Thay vì hò hét như đám "nhân sĩ" ngày nay về lật đổ chính quyền, đâu tranh nghị trường, post bài chửi bới, Bác Hồ chỉ nói "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng...". Nếu một đất nước thối nát, chính những người dân phải biết nó thối nát như thế nào. Vậy cũng chẳng cần những kẻ rỗi hơi ngồi bắc cái mõ làng mà rêu rao. Bác Hồ đã truyền cảm hứng cho hàng triệu con người, trải suốt kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ. Cái mà ông Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu... đã không làm được. Đó là giá trị của một leader.
nguồn: sinhvientmu.com

Chủ Nhật, 27 tháng 8, 2017

Khái niệm vốn lưu động

Mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tài sản cố định (TSCĐ) còn phải có các tài sản lưu động (TSLĐ) tuỳ theo loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của TSLĐ khác nhau. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp sản xuất TSLĐ được cấu thành bởi hai bộ phận là TSLĐ sản xuất và tài sản lưu thông.

- TSLĐ sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu...và tài sản ở khâu sản xuất như bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, chi phí chờ phân bổ...

- Tài sản lưu thông của doanh nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hóa chưa được tiêu thụ ( hàng tồn kho ), vốn bằng tiền và các khoản phải thu.


Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng TSLĐ nhất định. Do vậy, để hình thành nên TSLĐ, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn đầu tư vào loại tài sản này, số vốn đó được gọi là vốn lưu động.
Tóm lại, vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn ứng ra để hình thành nên TSLĐ nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào lưu thông và từ trong lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại một lần sau một chu kỳ kinh doanh.

Đặc điểm của vốn lưu động

Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, vốn lưu động chuyển toàn bộ, một lần giá trị vào giá trị sản phẩm, khi kết thúc quá trình sản xuất, giá trị hàng hóa được thực hiện và vốn lưu động được thu hồi.

Trong quá trình sản xuất, vốn lưu động được chuyển qua nhiều hình thái khác nhau qua từng giai đoạn. Các giai đoạn của vòng tuần hoàn đó luôn đan xen với nhau mà không tách biệt riêng rẽ. Vì vậy trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý vốn lưu động có một vai trò quan trọng. Việc quản lý vốn lưu động đòi hỏi phải thường xuyên nắm sát tình hình luân chuyển vốn, kịp thời khắc phục những ách tắc sản xuất, đảm bảo đồng vốn được lưu chuyển liên tục và nhịp nhàng.

Trong cơ chế tự chủ và tự chịu trách về nhiệm tài chính, sự vận động của vốn lưu động được gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và người lao động. Vòng quay của vốn càng được quay nhanh thì doanh thu càng cao và càng tiết kiệm được vốn, giảm chi phí sử dụng vốn một cách hợp lý làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, doanh nghiệp có điều kiện tích tụ vốn để mở rộng sản xuất, không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức của doanh nghiệp.

Thành phần vốn lưu động

Dựa theo tiêu thức khác nhau, có thể chia vốn lưu động thành các loại khác nhau. Thông thường có một số cách phân loại sau:

* Dựa theo hình thái biểu hiện của vốn có thể chia vốn lưu động thành các loại:

- Vốn bằng tiền và các khoản phải thu:

+ Vốn bằng tiền: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp mà có thể dễ dàng chuyển đổi thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có một lượng tiền nhất định.

+ Các khoản phải thu: Chủ yếu là các khoản phải thu từ khách hàng, thể hiện số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng hóa, dịch vụ dưới hình thức bán trước trả sau.

- Vốn vật tư, hàng hóa: Bao gồm 3 loại gọi chung là hàng tồn kho

+ Nguyên liệu, vật liệu, công cụ và dụng cụ.

+ Sản phẩm dở dang

+ Thành phẩm

Việc phân loại vốn lưu động theo cách này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét, đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

* Dựa theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh có thể chia vốn lưu động thành các loại chủ yếu sau:

- Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất, gồm các khoản:

+ Vốn nguyên liệu, vật liệu chính + Vốn phụ tùng thay thế

+ Vốn công cụ, dụng cụ + Vốn nhiên liệu

+ Vốn vật liệu phụ

- Vốn lưu động trong khâu sản xuất:

+ Vốn sản phẩm dở dang

+ Vốn về chi phí trả trước

- Vốn lưu động trong khâu lưu thông

+ Vốn thành phẩm

+ Vốn bằng tiền

+ Vốn đầu tư ngắn hạn về chứng khoán và các loại khác

+ Vốn trong thanh toán: những khoản phải thu và tạm ứng

* Theo nguồn hình thành

- Nguồn vốn pháp định: Nguồn vốn này có thể do Nhà nước cấp, do xã viên, cổ đông đóng góp hoặc do chủ doanh nghiệp tự bỏ ra

- Nguồn vốn tự bổ sung: Đây là nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung chủ yếu một phần lấy từ lợi nhuận để lại

- Nguồn vốn liên doanh, liên kết

- Nguồn vốn huy động thông qua phát hành cổ phiếu

- Nguồn vốn đi vay

Đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên trong kinh doanh. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp có thể vay vốn của ngân hàng các tổ chức tín dụng khác hoặc có thể vay vốn của tư nhân các đơn vị tổ chức trong và ngoài nước.

Vai trò của vốn lưu động

Để tiến hành sản xuất, ngoài TSCĐ như máy móc, thiết bị, nhà xưởng... doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, nguyên vật liệu... phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy vốn lưu động là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác vốn lưu động là điều kiện tiên quyết của quá trình sản xuất kinh doanh.

Ngoài ra vốn lưu động còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp.

Vốn lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp phải huy động một lượng vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. Vốn lưu động còn giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
nguồn: voer.edu.vn

Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2017

Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) là gì?


Hiệp định Thương mại tự do (FTA) là kết quả chính thức của một quá trình thương lượng giữa hai hay nhiều quốc gia ký kết nhằm hạ thấp hoặc loại hẳn các rào cản đối với thương mại. Một FTA thường bao gồm những vấn đề quy định về thuế nhập khẩu, hạn ngạch và lệ phí đối với hàng hóa/dịch vụ được giao dịch giữa các thành viên ký kết FTA nhằm cho phép các nước mở rộng tiếp cận thị trường của nhau.

Trả lời: Cho tới nay đã có rất nhiều các tổ chức và quốc gia khác nhau đưa ra các khái niệm về FTA cho riêng mình. Điều này thể hiện những quan điểm khác nhau về FTA cũng như sự phát triển đa dạng của các quốc gia. Tuy nhiên theo cách hiểu chung nhất, FTA là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng việc cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên. Ngày nay, FTA còn có cả các nội dung mới xúc tiến và tự do hóa đầu tư, chuyển giao công nghệ, lao động, môi trường…


Nội dung chính của FTA gồm những gì?

Trả lời: Một FTA thông thường bao gồm những nội dung chính sau:

- Thứ nhất là quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan.

- Thứ hai là quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan. Thông lệ áp dụng chung là 90% thương mại.

- Thứ ba là quy định lộ trình cắt giảm thuế quan, khoảng thời gian cắt giảm thuế thường được kéo dài không quá 10 năm.

- Thứ tư là quy định về quy tắc xuất xứ.

Các nội dung khác đề cập tới vấn đề tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các biện pháp hạn chế định lượng, các rào cản kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua sắm chính phủ, lao động, bảo hiểm và môi trường…

Có những loại hình FTA nào?

Trả lời: Hiện nay có một số loại FTA mà Việt Nam tham gia như sau:

- FTA khu vực: là FTA được ký giữa các nước trong cùng một tổ chức khu vực. Ví dụ AFTA.

- FTA song phương: được ký giữa 2 nước. Ví dụ như FTA giữa Việt Nam và Chi Lê..;

- FTA đa phương: được ký giữa nhiều đối tác khác nhau. Ví dụ như TPP...;

- FTA được ký giữa một tổ chức với một nước: ví dụ các FTA được ký giữa một bên là tổ chức ASEAN với Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc... Hay FTA giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu EU.

Các lý do chính hình thành các FTA?

Trả lời: Có 2 lý do chính sau hình thành nên các FTA:

Thứ nhất là vòng đàm phán Doha kéo dài lâm vào bế tắc; trong khi đó các quốc gia ngày càng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư, tăng cường quan hệ ngoại giao… nên họ muốn ký với nhau FTA để thúc đẩy nhanh hơn tiến trình tự do hóa thương mại.

Thứ hai là các quốc gia không tự nguyện đơn phương giảm các rào cản thương mại mà phải thỏa thuận cùng nhau cắt giảm các rào cản tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Quá trình thúc đẩy tự do hóa thương mại này dẫn đến việc thành lập các FTA.

Việt Nam đã tham gia bao nhiêu FTA?

Trả lời: Tính đến cuối tháng 10 năm 2015, tình hình tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) của Việt Nam cụ thể như sau:

- Đã ký kết 10 FTA: bao gồm:

+ 6 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN (gồm AFTA, 5 FTA giữa ASEAN và các đối tác: Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và Niu Dilân)

+ 4 FTA đàm phán với tư cách là một bên độc lập (gồm FTA với các đối tác: Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế Á Âu)

- Vừa hoàn tất đàm phán 2 FTA (gồm FTA với Liên minh Châu Âu và Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương - TPP).

- Đang tiếp tục đàm phán 3 FTA, gồm: FTA ASEAN– Hồng Công (Trung Quốc), FTA với Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
nguồn: trungtamwto.vn

Thứ Năm, 24 tháng 8, 2017

Binomo là gì?

Thực chất Binomo là nhà môi giới đầu tư theo hình thức là đầu tư tài chính dưới dạng quyền chọn nhị phân (Binary Option), là dạng dự đoán chiều hướng giá trị tài sản sẽ tăng hay giảm để thu lợi nhuận trong khoảng thời gian cược nhất định.

Nguyên lý hoạt động cũng tương tự giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nó đòi hỏi không chỉ kiến thức mà còn là kỹ năng giao dịch từ nhà đầu tư (NĐT), tính toán thời điểm “vàng“.

Vào vai NĐT tài chính với số vốn ban đầu trong tài khoản Demo là 1000 Euro, sau một thời gian trải nghiệm, tìm hiểu chức năng, chiến lược, nguyên lý và cách thức giao dịch, người viết nhận thấy về hình thức thì khá đơn giản nhưng ẩn sâu trong đó là “bẫy tài chính”.


Thực tế rất khó để có thể hiểu được rõ nguyên lý lên – xuống giá trị tài sản trên thị trường giao dịch tài chính này. Khi ai đó đặt câu hỏi về điều bất thường này sẽ nhận được câu trả lời là phải có kiến thức về nền kinh tế thế giới hoặc im lặng. Liệu có phải sự lên - xuống của tài sản dựa vào chương trình đã được lập trình sẵn?

Tìm hiểu trên website của Binomo, sàn giao dịch này có xây dựng trình đầu tư tự động được lập trình sẵn chiến lược và thời điểm đầu tư “vàng” giúp NĐT nhàn hạ hơn mà vẫn kiếm được tiền, còn nếu tự đầu tư và bỏ qua dịch vụ tư vấn thì phải là người theo dõi thị trường trong một thời gian dài và có kiến thức chuyên sâu về kinh tế và tài chính để dự đoán nguyên lý lên – xuống giá trị tài sản trên sàn giao dịch.


Chiến lược?

Qua tiếp xúc với nhiều NĐT nhận thấy luôn thường trực sự mông lung đối với các quyết định tài chính. Điều này có lẽ xuất phát từ việc không rõ nguyên lý lên – xuống của giá trị tài sản biểu thị thông qua đường trung bình cộng trên biểu đồ. Nhiều người từ qua tìm hiểu chiến lược được công bố trên website và quá trình chơi trên tài khoản Demo đã rút ra “chiến lược”.

“Trong lần cược đầu tiên chỉ đặt 1 USD, nếu thua đặt 2 USD, thua tiếp đặt 4 USD thua tiếp nhân đôi lên nữa, còn nếu ăn thì quay lại đặt 1 USD rồi tiếp tục. Thua tới 20 USD thì nghỉ mai giao dịch tiếp”, người chơi ở Quy Nhơn chia sẻ.

Cách chơi này có lẽ xuất phát định hướng chiến lược 1- (1+1) của Binomo và lợi nhuận lên tới 86% (tùy thị trường tài chính) trong khi trích lại cho Binomo chỉ từ 15 – 25%. Giả sử nếu thắng 100 USD thì sẽ nhận được 75 USD và trích cho Binomo 25 USD.

Việc đầu tư dưới dạng quyền lựa chọn nhị phân nhìn thì đơn giản nhưng để thắng được đòi hỏi NĐT phải bỏ công sức “ngồi rình” cả ngày để bắt được điểm “rơi tiền”.

Nếu trong sổ xố có cách tính kết quả bằng việc nằm mơ, bắt gặp một số ngẫu nhiên khi bước chân ra đường, cộng trừ dãy số theo quy luật tăng – giảm dựa vào kết quả của hôm trước thì cách tính toán chiến lược trên sàn Binomo cũng tương tự, đều cho thấy sự thiếu căn cứ và tính rủi ro cực cao. Đó còn chưa tính đến lực lượng “chim mồi” chuyên sử dụng tài khoản facebook ảo để bình luận, tuyên truyền về Binomo.
nguồn: báo mới

Bản chất của FDI là gì?

Sự phát triển của đầu tư trực tíêp nước ngoài được quy đinh hoàn toàn bởi quy luật kinh tế khách quan với những điều kiện cần và đủ chín muồi nhất định . Sự thay đổi thái độ từ ban đầu là “chống lại” qua “chấp nhận” đến “hoan nghênh” , đầu tư trực tíêp nước ngoài có thể xem là yếu tố tác động làm tạo ra những bước thay đổi nhận thức theo hướng ngày càng đúng hơn và chủ động hơn của con người đối với quy luật kinh tế khách quan về sự phát triển sức sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội đang mở ra một cach thực tế trên quy mô quốc tế.Xu hướng này có ý nghĩa quyết định trong viêc chi phối các biểu hịên khác nhau cuả đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Quan hệ kinh tế quốc tế đã hình thành nên các dòng lưu chuyển vốn chủ yếu:Dòng vốn từ các nước đang phát triển đổ vào các nước đang phát triển; dòng vốn lưu chuyển trong nội bộ các nước phat triển.Sự lưu chuyển của các dòng vốn diễn ra dưới nhiều hinh thức như : Tài trợ phát triển chính thức (gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức khác),nguồn vay tư nhân(tín dụng từ các ngân hàng thương mại) và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mỗi nguồn vốn có đặc điểm riêng của nó.


Nguồn tài trợ phát triển chính thức là nguồn vốn do các tổ chức quốc tế, chính phủ( hoặc cơ quan đại diện chính phủ) cung cấp. Loại vốn này có ưu điểm là có sự ưu đãi nhất định về lãi suất, khối lượng cho vay lớn và thời hạn vay tương đối dài. Để giúp các nước đang phát triển, trong loại vốn này đã giành một lượng vốn chủ yếu cho vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, đây là nguồn vốn có nhiều ưu đãi, trong ODA có một phần là viện trợ không hoàn lại, chiếm khoảng 25% tổng số vốn. Tuy vậy không phải khoản ODA nào cũng dễ dàng, nhất là loại vốn do các chính phủ cung cấp, nó thường gắn với những rằng buộc nào đó về chính trị, kinh tế, xã hội, thậm chí cả về quân sự.

Nguồn vay tư nhân: Đây là nguồn vốn không có những rằng buộc như vốn ODA, tuy nhiên đây là loại vốn có thủ tục vay rất khắt khe, mức lãi suất cao, thời hạn trả nợ rất nghiêm ngặt.

Nhìn chung sử dụng hai loại vốn trên đều để lại cho nền kinh tế các nước đi vay gánh nặng nợ nần – một trong những yếu tố chứa đựng tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến khủng hoảng, nhất là khủng hoảng về tiền tệ.

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại,đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại vốn có nhiều ưu điểm hơn so với các loại vốn kể trên. Nhất là đối với các nước đang phát triển, khi khả năng tổ chức sản xuất đạt hiệu quả còn thấp thì hiệu quả càng rõ rệt.
Về bản chất , FDI là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên la nhà đầu tư và một bên khác là nước nhận đầu tư.

– Đối với nhà đầu tư:

Khi quá trình tích tụ tập trung vốn đạt tới trình độ mà “mảnh đất” sản xuất kinh doanh truyền thống của họ đã trở nên chật hẹp đến mức cản trở khả năng hiệu quả của đầu tư , nơi mà ở đó nếu đầu tư vào thì họ sẽ thu được lợi nhuận như mong muốn . Trong khi ở một số quốc gia khác lại xuất hiện nhiều lợi thế mà họ có thể khai thác để thu lợi nhuận cao hơn nơi mà họ đang đầu tư .Có thể nói đây chính là yếu tố cơ bản nhất thúc đẩy các nhà đầu tư chuyển vốn của mình đầu tư vào nước khác.Hay nói cách khác ,việc tìm kiếm , theo đuổi lợi nhuận cao hơn và bảo toàn độc quyền hay lợi thế cạnh tranh là bản chất , là động cơ , là mục tiêu cơ bản xuyên suốt của các nhà đầu tư .Đầu tư ra nước ngoài là phương thức giải quyết có hiệu quả. Đây là loại hình mà bản thân nó rất có khả năng để thực hiện việc kéo dài “chu kỳ tuổi thọ sản phẩm” , “chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật” mà vẫn giữ được độc quyền kỹ thuật ,dễ dàng xâm nhập thị trường nước ngoài mà không bị cản trở bởi các rào chắn.

Khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như giá nhân công rẻ của nước nhận đầu tư…Phải nói rằng,đầu tư trực tiếp nước ngoài là “lối thoát lý tưởng”trươc súc ép xảy ra “sự bùng nổ phá sản”do những mâu thuẫn tất yếu của quá trình phat triển. Ta nói nó là lý tưởng vì chính lối thoát này đã tạo cho các nhà đầu tư tiếp tục thu lợi và phát triển , có khi còn phát triển với tốc độ cao hơn. Thậm chí khi nước nhận đàu tư có sự thay đổi chính sách thay thế nhập khẩu sang chính sách hướng sang xuất khẩu thì nhà đầu tư vẫn có thể tiếp tục đầu tư dưới dạng mở các chi nhánh sản xuất các bộ phận , phụ kiện …để xuất khẩu trở lại để phục vụ cho công ty mẹ , cũng như các thị trường mới …Đối với các nước đang phat triển , dưới con mắt của các nhà đầu tư , trong những năm gần đây các nước này đã có những sự cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế , trình độ và khả năng phát triển của người lao động, hệ thống luật pháp , dung lượng thị trường, một số nguồn tài nguyên … cũng như sự ổn định về chính trị… Những cải thiện này đã tạo sự hấp dẫn nhất định đối với các nhà đầu tư . Tước khi xảy ra khủng hoảng tài chính _tiền tệ , thế giới đánh giá Châu Á , và nhất là Đông Á và Đông Nam Á đang là khu vực xuất hiện nhiều nền kinh tế năng động, nhiều tiềm năng phát triển và có sức hút đáng kể đối với các nhà đầu tư.

Tóm lại :

Thực chất cơ bản bên trong của nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm:Duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất của chủ đầu tư ( vấn đề vốn , kỹ thuật , sản phẩm …;Khai thác các nguồn lực và xâm nhập thị trường của các nước nhận đầu tư ; Tranh thủ lợi dụng chính sách khuyến khích của các nước nhận đầu tư ; Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thực hiện các ý đồ kinh tế (hoặc phi kinh tế ) mà các hoạt đọng khác không thực hiện được.

– Đối với các nước nhận đầu tư :

Đây là những nước đang có một số lợi thế mà nó chưa có hoặc không có điều kiện để khai thác. Các nước nhận đầu tư thuộc loại này thường là các nước có nguồn tài nguyên tuơng đối phong phú, có nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu công nghệ tiên tiến và ít có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao… Số này phần lớn thuộc các nước phát triển.

– Các nước nhận đầu tư dạng khác đó là các nước phát triển, đây các nước có tiềm lực kinh tế cao, phần lớn là những nước có vốn đầu tư ra nước ngoài. Các nước này có đặc điểm là có cơ sở hạ tầng tốt, họ đă và đang tham gia có hiệu quả vào qúa trình phân công lao động quốc tế hoặc là thành viên của các tổ chức kinh tế hoặc các tập đoàn kinh tế lớn. Họ nhận đầu tư trong mối liên kết để giữ quyền chi phối kinh tế thế giới.

Nói chung, đối với nước tiếp nhận đầu tư, cho dù ở trình độ phát triển cao hay thấp, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là do sự khéo léo “mời chào” hay do các nhà hay do các nhà đầu tư tự tìm đến mà có , thì đầu tư nước ngoài cũng thường có sự đóng góp nhất định đối với sự phát triển của họ. Ở những mức độ khác nhau , đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vài trò là nguồn vốn bổ sung là điều kiện quyết định ( thậm chí quyết định) theo sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực của một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh , hay một số ngành nghề , hoặc là những yếu tố xúc tác làm cho các tiềm năng nội tại của nước nhận đầu tư phát huy một cách mạnh mẽ và có hiệu quả hơn.

Lịch sử phát triển trực tiếp nước ngoài cho thấy thái độ của các nước nhận đầu tư là từ thái độ phản đối ( xem đầu tư trực tiếp nước ngoài là công cụ cướp bóc đối với thuộc địa ) đến thái độ buộc phải chấp nhận và đến thái độ hoan nghênh …Trong điều kiện hiện nay , đầu tư trực tiếp nước ngoài được mời chào , khuyến khích mãnh liệt đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
nguồn: dankinhte.vn